Cơ sở lý luận xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới
PGS. TS Nguyễn Đình Bắc - ThS Đỗ Thanh Hải
16/1/2024
Chuẩn mực đạo đức cách mạng là tiêu chí, mực thước để đánh giá phẩm chất, nhân cách và năng lực của người cán bộ, đảng viên, để xem họ có xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”, xứng đáng đảm nhận trọng trách với sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó.
Do đó, xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng có vai trò đặc biệt quan trọng, “làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày” ; là động lực thúc đẩy họ không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, năng lực, uy tín để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng nước nhà.
Các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản của cán bộ, đảng viên trước đây đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Mặc dù vậy, trong giai đoạn mới, các chuẩn mực này cần có sự bổ sung, phát triển, cần xây dựng những tiêu chí, tiêu chuẩn mới để bảo đảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới và yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, nhất là thực tiễn đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng, phát triển đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Như Đảng ta đã khẳng định: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc” . Nói cách khác, xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới hoàn toàn không phải là một sự tùy hứng, đề cao thái quá hay áp đặt chủ quan, duy ý chí của Đảng Cộng sản Việt Nam như một số người “thiếu hiểu biết” hoặc một số kẻ cơ hội chính trị, thù địch đã, đang cố tình rêu rao tuyên truyền, xuyên tạc. Trái lại, đó là một sự tất yếu khách quan, yêu cầu cấp thiết, xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ, rõ ràng; những luận chứng, luận cứ khoa học sinh động, giàu sức thuyết phục. Bài viết tập trung khái quát và luận giải một số khía cạnh của cơ sở lý luận về xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới như sau:
Thứ nhất, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của đạo đức và xây dựng chuẩn mực đạo đức của người cách mạng, người cộng sản.
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức, tạo tiền đề lý luận khoa học cho những người cộng sản và giai cấp công nhân vận dụng vào thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đời sống văn hóa - tinh thần, đạo đức trong xã hội mới do giai cấp công nhân, nhân dân lao động làm chủ. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có phê phán các quan niệm đạo đức đã có trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt đạo đức trên nền tảng vật chất của đời sống hiện thực. Trong đó, các ông nhấn mạnh, sự phát sinh, phát triển của đạo đức bao giờ cũng xuất phát từ đời sống xã hội hiện thực, từ sự phát sinh, phát triển của các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội. Đồng thời, các ông đi sâu phân tích bản chất, các thuộc tính đặc trưng của đạo đức như: tính giai cấp, tính dân tộc, tính thời đại và tính nhân loại; mối quan hệ giữa đạo đức với một số lĩnh vực khác của đời sống xã hội; khẳng định vai trò to lớn của đạo đức trong việc hoàn thiện nhân cách con người mới, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội mới, tạo động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng nhân đạo, nhân văn. Như C.Mác đã chỉ rõ: “Phẩm giá chính là điều đề cao con người nhiều hơn cả, là cái đem lại sự cao đẹp tối thượng cho hoạt động của con người, cho tất cả ước nguyện vươn tới của con người”
Từ vai trò to lớn của đạo đức, C.Mác và Ph.Ăngghen quan tâm đặc biệt đến giáo dục đạo đức cách mạng để nâng cao giác ngộ cách mạng, củng cố lòng tin, tinh thần lạc quan cách mạng, tự nguyện, tự giác hy sinh quên mình vì lợi ích của nhân dân của những đảng viên cộng sản. Trên cơ sở đó mới phát huy được sức mạnh tinh thần, nội lực to lớn của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Theo C.Mác, việc giáo dục đạo đức cách mạng không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt, dạy dỗ những nguyên tắc, những chuẩn mực xã hội, những cách thức ứng xử giữa người và người theo những yêu cầu nhất định như các hệ thống giáo dục đạo đức trước đó trong lịch sử, mà còn phải đặc biệt chú ý đến việc tạo ra những hoàn cảnh, những điều kiện xứng đáng nhất, hợp với bản chất người nhất, coi đó là cơ sở, là một phương diện hữu cơ của giáo dục đạo đức, là điều kiện “suy đến cùng” quyết định sự phát triển đạo đức con người. Đặc biệt, các ông cũng chỉ rõ, trong giáo dục đạo đức cách mạng cần phải kết hợp giữa truyền đạt và nêu gương. Những tấm gương đạo đức là hiện thân sinh động của các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, nhờ vậy, chúng có sức cảm hóa, có khả năng thâm nhập một cách tự nhiên vào ý thức con người. Điều đó đòi hỏi sự cần thiết phải xây dựng các chuẩn mực đạo đức của người cách mạng.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng phát biểu tại hội thảo "Xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới"
V.I.Lênin là người kế tục xuất sắc những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã bảo vệ, phát triển toàn diện học thuyết Mác trong đó có vấn đề đạo đức trong điều kiện mới, khởi thảo hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới - đạo đức cộng sản, đưa đạo đức học mácxít phát triển lên một giai đoạn mới, gắn kết chặt chẽ đạo đức với thực tiễn cách mạng, làm cho đạo đức cộng sản ngày càng trở nên phổ quát trong xã hội mới do giai cấp công nhân và những người lao động làm chủ, con người được tự do, phát triển toàn diện các phẩm chất và năng lực của mình. V.I.Lênin đã khẳng định: “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”; và do đó “đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bon bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” . Theo đó, sự hình thành nền đạo đức mới, phải thể hiện ở những nhân cách đạo đức - chủ thể của các quan hệ, các hoạt động người. Chính các chủ thể đạo đức thể hiện giá trị, vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội. Vì thế, giáo dục đạo đức cộng sản cho cán bộ, đảng viên của đảng luôn là mối quan tâm hàng đầu của V.I.Lênin.
Khẳng định vai trò của đạo đức cộng sản trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong xây dựng đảng cộng sản cầm quyền, V.I.Lênin chỉ rõ phải xây dựng đảng cầm quyền thật sự là một đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại. V.I.Lênin đã khởi thảo nhiều nguyên lý của đạo đức nói chung và đạo đức cộng sản nói riêng, tạo nên sự thống nhất, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận đạo đức với thực tiễn đạo đức. Ông chỉ rõ, đạo đức cộng sản là đạo đức của những người lao động sáng tạo ra xã hội mới cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội; khẳng định tính tất yếu của sự ra đời và vai trò to lớn của đạo đức cộng sản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; đã luận chứng và xây dựng một hệ thống lý luận về đạo đức cộng sản. Đặc biệt, các chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản đã được V.I.Lênin quan tâm, luận giải rất sâu sắc; trong đó nổi bật lên đó là hệ thống các phẩm chất về trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng; tinh thần tự giác gánh vác nhiệm vụ và lòng hy sinh phục vụ chủ nghĩa cộng sản; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tận tâm, tận tụy, trách nhiệm với công việc, có tinh thần gương mẫu trước nhân dân; khiêm tốn, cầu thị, không “kiêu ngạo cộng sản”, không tự phụ, không tự cao tự đại; không tham ô, hối lộ; tiết kiệm, không lãng phí của công; không ham địa vị, không lạm quyền, không đặc quyền, đặc lợi; trung thực, không che giấu mà dũng cảm nhận và quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm; không quan liêu và kiên quyết chống quan liêu; tôn trọng, gần gũi, tin tưởng và phục vụ lợi ích của nhân dân. Theo V.I.Lênin, đây đồng thời là những phẩm chất đạo đức cần có của người cộng sản để góp phần thiết thực vào xây dựng đất nước, nhất là trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền và lãnh đạo đất nước.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng và việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của đạo đức cách mạng và không ngừng chăm lo giáo dục, rèn luyện, xây dựng đạo đức cho con người nói chung và chuẩn mực đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Theo Người, đạo đức cách mạng là đạo đức mới khác hẳn về chất so với các kiểu đạo đức cũ: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” . Đạo đức mới, đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cách mạng; ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước vì lợi ích cá nhân; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; vì Đảng vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu đi đầu trong mọi việc.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái “gốc”, là một yếu tố không thể thiếu trong phẩm chất của cán bộ, đảng viên, nhưng là yếu tố quan trọng nhất, nền tảng của người cách mạng. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” . Sở dĩ cán bộ, đảng viên cần phải có đạo đức cách mạng, bởi theo Người, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Người dạy rằng, muốn làm cách mạng trước hết phải có đạo đức cách mạng, phải vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng của giai cấp, của dân tộc và của cả loài người mà không ngần ngại hy sinh cả tính mạng mình. Đạo đức cách mạng là động lực giúp người cách mạng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hiểm nguy. Hồ Chí Minh khẳng định: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng… Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không” , vì vậy, để hoàn thành được trọng trách cao cả, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo các chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Cùng với việc khẳng định vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh còn luôn coi trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức cách mạng cho từng giai tầng trong xã hội, cho từng giới, từng lứa tuổi, nghề nghiệp,… nhất là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Bởi lẽ, theo Người, cán bộ, đảng viên là nhân tố quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, là những người có vai trò quan trọng trong vận động, tổ chức, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh để giành độc lập tự do. Họ còn là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích của dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Điều đó có nghĩa rằng, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Chính lý do này đã giải thích vì sao trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dường như những yêu cầu, chuẩn mực và các phẩm chất đạo đức mà Người nêu ra chủ yếu dành cho đối tượng là cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy mà không phải ngẫu nhiên, bài giảng đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại các lớp huấn luyện chính trị chuẩn bị cho việc thành lập Đảng lại là bài “Tư cách một người cách mệnh” được in ngay đầu cuốn “Đường Kách mệnh” phát hành năm 1927. Các yêu cầu đối với tự mình, với việc và với người mà Người nêu trong bài thể hiện khái quát nhất về các chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng bàn về vấn đề căn cốt, trọng yếu đó, sau này, Hồ Chí Minh còn đề cập, phân tích sâu sắc và toàn diện hơn, cụ thể và thuyết phục hơn trong các bài nói, bài viết và một số tác phẩm chuyên biệt như: “Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Chủ nghĩa cá nhân” (1948), “Cần, kiệm, liêm, chính” (1949), “Đạo đức cách mạng” (1955, 1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969). Và ngay cả trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” .
Đặc biệt, với tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược, cùng với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Hồ Chí Minh còn tiên lượng, sớm chỉ ra và cảnh báo nguy cơ cán bộ, đảng viên dễ mắc phải căn bệnh “lệch chuẩn đạo đức”. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực, lại phải thường xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất, nên đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên lãnh đạo, quản lý cơ bản đứng trước nguy cơ bị thoái hóa, biến chất về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống,… Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nguy cơ đó sẽ ngày càng tăng nếu mỗi cán bộ, đảng viên xem thường việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải lấy việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo các chuẩn mực để làm thước đo, căn cứ đánh giá về tư cách đạo đức, để cảnh báo chính mình.
Thứ ba, truyền thống “trọng đạo đức” của dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc “trọng đạo đức”, Nhân dân luôn đòi hỏi mỗi người phải tu dưỡng đạo đức để giữ làng, giữ nước. Quá trình đó đã hình thành nên đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta đã đời đời lưu truyền và đặt lên hàng đầu việc tuyên dương những tấm gương hy sinh bất khuất vì độc lập tự do của Tổ quốc như: Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến các anh hùng, nghĩa sĩ đã hy sinh vì dân, vì nước. Do đó, nêu gương đạo đức luôn được coi là một yêu cầu trên hết và trước hết của giáo dục đạo đức trong xã hội, một phương pháp giáo dục hết sức hiệu quả. Truyền thống giáo dục đạo đức gắn với coi trọng nêu gương, yêu cầu nêu gương không chỉ thể hiện trong lời nói mà phải được thể hiện trong hành vi hằng ngày, trong hành vi đạo đức. Những bậc “vua sáng, tôi hiền”, những người có tài trí và đạo đức cao đẹp, có công lao đối với dân tộc, đất nước, luôn nêu cao tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức đã minh chứng thuyết phục cho truyền thống “trọng đạo đức” của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử. Đồng thời với coi trọng nêu gương đạo đức, nhân dân ta cũng thường tỏ thái độ lên án, phê phán đối với thói đạo đức giả, nói không đi đôi với làm, nói một đằng, làm một nẻo; lên án mạnh mẽ những kẻ mà hành vi phản đạo đức của họ đi ngược lại với lợi ích cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước, truyền thống “trọng đạo đức“ của dân tộc trở thành tài sản văn hóa tinh thần quý giá tiếp tục được phát triển cho đến hiện nay. Các chuẩn mực đạo đức về lòng yêu nước, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, sống nhân nghĩa, thuỷ chung, thông minh, hiếu học, đề cao nhân phẩm, quý trọng tình người, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm,... là những phẩm chất đặc sắc của đạo đức truyền thống dân tộc, được bồi đắp và phát huy trong suốt chiều dài lịch sử, trở thành lẽ sống cao đẹp được trân trọng giữ gìn, bổ sung, phát triển. Bất kể một ai đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc, vi phạm các chuẩn mực đạo đức đều bị lên án và lịch sử phán xét.
Thứ tư, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng về đạo đức và xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng và việc xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cộng sản, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng về đạo đức và xây dựng các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên nhằm không ngừng giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn, trong từng thời kỳ. Đảng ta luôn nhất quán khẳng định, xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng cái nền gốc tinh thần vững chắc của Đảng và sức mạnh nội sinh của cách mạng, nhân tố rất quan trọng trong giữ vững và nâng cao uy tín chính trị của Đảng trong Nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế; giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng là vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đồng thời, đây cũng là một mặt rất quan trọng trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, là người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong cương lĩnh, đường lối và nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng đều thể hiện đầy đủ, sinh động, rõ nét vai trò, tầm quan trọng, nội dung xây dựng Đảng về đạo đức và xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Ngày 26/6/1992, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”, Nghị quyết nêu rõ vai trò của xây dựng đạo đức cách mạng và các yêu cầu, chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên của Đảng. Đó là: “xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết. Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, gương mẫu trong lao động, cần kiệm xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh, giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của dân tộc” . Nghị quyết 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định tiêu chuẩn chung của đội ngũ cán bộ. Những tiêu chuẩn này cũng được xem như là những chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải có: Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI đã xác định nhiều quy phạm, chuẩn mực đạo đức của người đảng viên như: 1- Đối với Đảng, trung thành với lý tưởng cách mạng, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc,… 2- Đối với Tổ quốc, trung thành với Tổ quốc, biết đặt lợi ích của Tổ quốc và của Đảng lên trên lợi ích cá nhân,… 3- Đối với nhân dân, phải thể hiện là bộ phận ưu tú, tiên phong của xã hội, trong đó các phẩm chất đạo đức là chuẩn mực quan trọng cấu tạo nên vai trò tiên phong và ưu tú của đảng viên,… 4- Đối với bản thân, phải có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh; không ngừng học tập nâng cao trình độ và rèn luyện đạo đức, lối sống, phong cách…
Tại Đại hội XII, lần đầu tiên trong văn kiện Đảng đã đánh giá nội dung công tác xây dựng Đảng về đạo đức: “Coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước đầu quan trọng” . Đồng thời xác định: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” là một trong những phương hướng, nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng những năm tiếp theo. Đặc biệt, tại Đại hội lần này, Đảng đã đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang với nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cụ thể: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” và đề cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh đó, các quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên - với tư cách là những hình thức biểu hiện của chuẩn mực đạo đức cách mạng đã được Đảng ta ban hành như: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương; Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định 37-QÐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về “Những điều đảng viên không được làm”, v.v..
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng Đảng về đạo đức là một trong những trụ cột của công tác xây dựng Đảng nói chung, có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong phương hướng, nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới, Đảng ta xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” . Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Và vì thế, xây dựng, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng luôn có ý nghĩa to lớn, vai trò rất quan trọng để lựa chọn và sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng; bảo đảm không để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết” .
Có thể nói, những chỉ thị, quy định, nghị quyết trên cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng Đảng nói chung, cũng như sự cần thiết xây dựng chuẩn mực đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Hiện nay, trước sự biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, không ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức càng đặt ra yêu cầu cấp thiết về xây dựng các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.