Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh: Một thập kỷ gian nan tìm đường về Tổ Quốc

Trung Sơn
2/6/2023

Nhớ về nguồn cội, “ôn cố tri tân” vừa là đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta vừa là trách nhiệm của thế hệ đi sau đối với tương lai của Tổ Quốc mình. Suy ngẫm về những năm tháng đã qua để biết nên ứng xử ra sao trên con đường mới. Năm 2022 - một năm có 3 số 2 khá đặc biệt, chúng ta cùng ôn lại chặng đường trở về Tổ Quốc vô cùng gian lao vất vả của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong quãng thời gian từ năm 1932 đến 1942 hẳn cũng rất có ý nghĩa.

Năm 1932, tức tròn 90 năm trước. Chúng ta từng biết sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hồng Kông ngày 6/6/1931 và được luật sư người Anh F.H. Loseby bênh vực. Vụ án kéo dài sang năm 1932; “tháng 1, ngày 26 - Đơn kháng án của Nguyễn Ái Quốc do Toà án tối cao Hồng Kông chuyển lên, Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh ở Luân Đôn đã nhận được”; mãi đến “tháng 8, trước ngày 15, Nguyễn Ái Quốc vẫn yêu cầu chính quyền Hồng Kông cho mình được sang Anh theo điều khoản thoả thuận vì phải sang Trung Quốc là một mối nguy hiểm cho mình”(1) Bị giam lâu ngày, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh, nhưng vẫn kiên trì đòi thực hiện điều khoản  có lợi cho mình. Vì thế,  mãi đến “Tháng 12, ngày 28, Nguyễn Ái Quốc được đưa ra khỏi bệnh viện và được tự do.”


Ảnh Tư liệu

Một năm rưỡi bị giam cầm ở xứ người, không thân thích, không “đồng chí” trợ giúp, quyền tự do mà Nguyễn Ái Quốc giành được chứng tỏ nghị lực phi thường và uy tín quốc tế của Người, ngay cả khi chưa đảm nhận trọng trách gì. 
Để có thể vượt qua một thập kỷ, đến ngày đặt chân lên mảnh đất địa đầu Tổ Quốc (ngày 28/1/1941), Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những năm tháng rất khó khăn, chính tại ngay nước Nga Xô Viết! Về giai đoạn này, trong tác phẩm “Nguyễn Ái Quốc qua hồi ức của một bà mẹ Nga” của nhà văn-anh hùng lao động Sơn Tùng - một “chuyên gia” viết về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh (NXB Thanh niên, 2007 - tái bản 2008) đã cho chúng ta biết khá rõ. Ông may mắn “có đầu mối để tìm sự ẩn mật của Bác” trong giai đoạn này là nhờ được tham gia Đoàn Đại biểu Thanh niên Sinh viên Việt Nam tham dự Đại hội Liên hoan TNSV thế giới tại Vacxava (Ba Lan) năm 1955, rồi được ở lại Liên Xô săn sóc một nhạc sĩ trong Đoàn bị ốm nên mới có cơ hội chuyện trò với “bà mẹ Nga” - bà Vêra, “người gần gũi làm việc với Nguyễn Ái Quốc nhiều thời kỳ 1923-1924, 1925-1928 và 1934-1938”. Bà từng làm việc trong “Ban La tinh” Quốc tế Cộng sản rồi chuyên trách công tác của trường Đại học Phương Đông mang tên Staline… Câu chuyện “mấy mươi năm khép kín trong tâm tư”, nay được tác giả công bố với nhiều chi tiết, sự kiện “ngoài chính sử”, hoặc đã bị thông tin sai lạc trên các sách báo ở trong và ngoài nước. Có thể dẫn ngay một chi tiết nhỏ mà bà Vêra kể lại cho Sơn Tùng ngay buổi gặp đầu tiên: “Hoạt động cách mạng có những tình huống éo le, ngặt nghèo. Anh Nguyễn bí danh là Lin phải sắm vai “làm chồng”, đồng chí Fanlan (tức Nguyễn Thị Minh Khai) “làm vợ” để che mắt thiên hạ mà thoát lưới mật thám. Sau kỳ Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, 1935, hai đồng chí Litvinôp (tức Lê Hồng Phong) và Fanlan mới có điều kiện làm đám cưới. Anh Nguyễn đứng chủ hôn cho đám cưới này. Mẹ có được mời dự”. Chi tiết này đã bị nhiều sách báo nước ngoài và trang mạng xuyên tạc. Vấn đề quan trọng mà bà Vêra đề cập là vì sao Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng như thế lại không được mời làm đại biểu chính thức tại Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 6 và 7, không được giao công tác trong nhiều năm. Mẹ Vêra, nhân chứng thời đó đã kể:
 “… Trong Đại hội 6, những quan điểm củaNguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc và thuộc địa bị phê phán dữ dội, kết luận Nguyễn Ái Quốc chỉ là người yêu nước nhiệt tình, không phải cách mạng vô sản mà là “Cách mạng nửa vời”, một thứ cách mạng trộn lẫn Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789) với Cách mạng Nga (1917) thành một cục! Thể hiện ở sách “Đường Cách Mệnh” và ở “Hội Thanh niên Cách mạng đồng chí”. Một số đại biểu còn lên án Nguyễn Ái Quốc xét lại chủ nghĩa Mác, đòi bổ sung học thuyết Mác như “… Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của Chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được…” Lại nữa: “… Mác đã xây dựng học thuyết của mình  trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn nhân loại…”… Đồng chí Xtalin tỏ vẻ khó chịu nhất là về vấn đề này…”
Chỉ trích dẫn chừng đó, bạn đọc đã có thể hiểu vấn đề. Sơn Tùng không chỉ có “nhân chứng” cùng thời là bà Vêra mà còn “vật chứng” là lá thư viết ngày 6/6/1938 của Nguyễn Ái Quốc gửi đồng chí Manuinxki (Ban Bí thư Quốc tế Cộng sản) mà bà Vêra cho biết đang lưu trữ trong Quốc tế Cộng sản ở Matxcơva: “…Hôm nay… cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí  giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này…”.
Phải là một con người có bản lĩnh với tinh thần cách mạng cao cả mới dám “nói ngược” với cả Quốc tế Cộng sản và Staline, mới vượt qua được giai đoạn khó khăn này.  Sau khi gửi lá thư, ngày 23/10/1938, mẹ Vêra làm cơm tiễn Nguyễn Ái Quốc lên đường về Tổ quốc…
Những “khó khăn” và bản lĩnh của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn này cũng đã được “Biên niên tiểu sử” (Tập 2) tóm lược như sau: 
“… Người phải trải qua nhiều gian khổ và cả những đau khổ về thể chất lẫn tinh thần trong cuộc đấu tranh đầy gian truân và hy sinh to lớn của mình. Hai lần bị giam cầm trong xà lim và ngục tù của bọn đế quốc phản động, cả hai lần đều bị ốm nặng và có tin đã chết (!). Trong việc đấu tranh để xác lập và bảo vệ đường lối cách mạng đúng đắn chống mọi khuynh hướng “tả” và hữu trong Đảng ta và trong Quốc tế Cộng sản, Người đã bình tĩnh, sáng suốt, kiên trì giữ vững quan điểm sáng tạo, đúng đắn của mình. Bằng dũng khí và trí tuệ, với sự tế nhị khéo léo, với ý thức tổ chức, kỷ luật, Người đã phấn đấu quyết liệt và bền bỉ để Đảng, do Người sáng lập, đi đúng đường lối mà Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định và ngày càng lớn mạnh…”.   
Cũng nên nhớ, tròn 100 năm trước - tháng 2 năm 1922 - lúc còn ở Paris, chí sĩ Phan Châu Trinh, trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn nói rõ: “…Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội của anh […] cảnh tôi như hoa sắp tàn […] Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông…” Và cụ Phan khuyên Nguyễn Ái Quốc phải về hoạt động trong nước... 
Như vậy, có thể nói, “cột mốc” 108 nằm trên biên giới Việt - Trung (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), nơi Người đặt chân lên địa đầu Tổ Quốc đầu Xuân 1941 (và sau đó - ngày 8/2 - về Hang Pắc Bó) đồng thời là “cột mốc” đánh dấu thắng lợi cuộc chiến đấu tìm đường cứu nước và “bảo vệ đường lối cách mạng đúng đắn” của mình - cuộc chiến đấu có thể nói là trường kỳ và đầy cam go Vì Tổ Quốc - Tổ Quốc trên hết, đồng thời chứng tỏ  “dũng khí và trí tuệ” phi thường của Người.  
Nhờ thế, bắt đầu mùa Xuân 1942, cách đây tròn 80 trước, Người đã triển khai hàng loạt hoạt động tuyên truyền và tổ chức lực lượng Việt Minh trong nước tại biên giới phía Bắc. Biên niên tiểu sử ghi:
“Tháng 1, ngày 1
- Bài thơ Chúc năm mới của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Việt Nam độc lập: 
Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi 
 Năm cũ qua rồi, chúc năm mới:
Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong!
Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi!
Chúc đồng bào ta đoàn kết mau!
Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!
Chúc toàn quốc ta trong năm này,
Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!
Năm này là năm rất vẻ vang,
Cách mệnh thành công khắp thế giới”.
Trong tháng 2/1942, Tác phẩm Lịch sử nước ta của Nguyễn Ái Quốc xuất bản lần đầu tiên. Bản diễn ca lịch sử này gồm 208 câu lục bát, nêu bật truyền thống yêu nước, bất khuất và đoàn kết của dân tộc. Mở đầu tác phẩm, Người viết:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà”
Người rút ra một kết luận có tính nguyên tắc, một bài học rất lớn, bài học đoàn kết:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”.
Trong các tháng 6,7,8 Người viết nhiều bài thơ ngắn đăng báo “Việt Nam độc lập” cổ vũ toàn dân đoàn kết…
Theo “Biên niên tiểu sử”:
“Khoảng tháng 7, 
Nguyễn Ái Quốc chủ trương “Nam tiến” mở thêm đường liên lạc tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn và tuyến Cao Bằng - Bắc Cạn - Thái Nguyên để liên lạc thuận tiện với Thường vụ Trung ương Đảng và tạo điều kiện phát triển cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang”.
Tháng 8, ngày 13
Buổi tối, với tên mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh .
Nhưng đúng là “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, chỉ ít ngày sau - ngày 27/8 - Người đi đến huyện Thiên Bảo (tỉnh Quảng Tây) thì bị quân tuần cảnh ở trụ sở của Quốc dân Đảng bắt giữ. Từ đây, Người lại phải trải cảnh tù đày, bị giải qua nhiều nơi. Nhưng ngay trong những ngày bị giam cầm đầu tiên, khí phách Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thể hiện qua bài thơ nổi tiếng, được viết tại nhà lao huyện Tĩnh Tây trong tháng 9/1942:
“Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao” .
Cho mãi đến tháng 9/1943, Người mới được trả lại tự do và trở về hang Pắc Bó tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng đang dâng cao thời kỳ Tiền khởi nghĩa 1945…
Nhân ngày sinh nhật Bác  2022, nhớ lại quãng thời gian 10 năm 1932-1942 vô cùng gian nan và đầy thử thách trên đường về Tổ Quốc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy phải phát huy trọng trách của mình trong việc học tập và đi theo con đường mà Người đã chọn, vì Tổ Quốc - Tổ Quốc trên hết, tiếp tục sự nghiệp Đổi Mới, để Đất Nước vượt lên tầm cao mới, xứng đáng với lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam./.
Chú thích
(1) Những tư liệu trong bài đều trích từ “Biên niên tiểu sử Hồ Chí Minh” - Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

CÙNG CHUYÊN MỤC