Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Cách mạng tháng Tám năm 1945

Nguyễn Xuyến
17/8/2022

Với tầm nhìn của một lãnh tụ thiên tài, Nguyễn Ái Quốc tiên đoán: Chiến tranh thế giới lần thứ hai không chỉ đem lại nguy cơ cho hàng triệu tính mạng con người mà còn là cơ hội để các nước nhược tiểu đấu tranh giành độc lập. Ngày 20-6-1940, sau khi nghe tin Pa-ri bị quân Đức chiếm, Người phân tích:”Việc Pháp mất nước là một cơ hội thuận tiện cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng” (1) Ngày 22-9-1940, Người đưa ra nhận định:”Đồng Minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chầy sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập” (2)


Ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc, trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 10 đến 19-5-1941, tại Khuối Nậm, làng Cốc Bó, xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng, Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8. Tại hội nghị này, Bác và Trung ương nhận định rằng: Cuộc chiến tranh thế giới giữa hai thế lực đế quốc sẽ chuyển thành cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội là chủ yếu. Liên Xô sẽ phải tiến hành một cuộc chiến đấu vô cùng khó khăn, nhưng chắc chắn sẽ cùng các lực lượng chống phát xít khác trên toàn thế giới đánh thắng, tạo ra một thời cơ lớn cho thắng lợi của cách mạng nhiều nước. Đảng ta phải chuyển hướng chiến lược nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước và dân chủ trong một Mặt trận thống nhất dân tộc, lấy nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc là thiêng liêng cấp bách, tạm gác lại khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã nêu trong Cương lĩnh năm 1930. Đảng sẽ kêu gọi nhân dân ta tổ chức lại thành các đoàn thể cứu quốc và tập hợp tất cả các tổ chức ấy và các cá nhân yêu nước trong Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Cương lĩnh cứu nước do Bác Hồ và đồng chí Trường Chinh phát thảo được Hội nghị Trung ương 8 nói trên thông qua, đã trở thành lời hịch kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc.
Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo công cuộc chuẩn bị, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng chăm lo công tác đào tạo cán bộ, giúp họ nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Mặt trận Việt Minh, trang bị lý luận và phương pháp công tác. Người còn quan tâm bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang với những hình thức từ thấp đến cao, từ tự vệ đến tự vệ chiến đấu, tiến lên xây dựng tiểu tổ du kích và đội du kích tập trung. Tháng 12-1944, Người ra “Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”, trong đó nêu rõ:”Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” (3)
Nhận thấy vị thế quan trọng và phong trào cách mạng khá vững của Cao Bằng, Nguyễn Aí Quốc quyết định chọn nơi đây đặt đại bản doanh  để từ đó chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Từ đây, Người chỉ đạo mở rộng căn cứ địa, tạo chỗ đứng cho Trung ương Đảng, các đảng bộ và lực lượng vũ trang chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa. Những thất bại liên tiếp và nặng nề của chủ nghĩa phát xít ở cả châu Âu va châu Á, nhất là những thắng lợi dồn dập của Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân các nước khác đã cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu của nhân dân ta.
Ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1945, giữa lúc diễn ra cuộc đảo chính của quân đội Nhật Bản chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp, thành lập bộ máy thống trị của Nhật, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng (12-3-1945) tại Đình Bảng (Bắc Ninh) ra chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” là sự chuyển hướng nhanh chóng toàn bộ quá trình cách mạng sang tình thế khởi nghĩa. Một cao trào chính trị và vũ trang diễn ra sôi nổi ở cả thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, ở cả ba miền trung nam bắc, đặc biệt sôi nổi là ở Hà Nội và Sài Gòn. Mấy nghìn cán bộ vượt ngục giữa lúc hai tên đế quốc thay thế nhau, mang lại cho phong trào cách mạng một lực lượng mới hết sức quý báu.
Tháng 5-1945, chủ nghĩa phát xít Đức bị đánh bại hoàn toàn. Bác Hồ kịp thời về Tân Trào, Tuyên Quang, trung tâm khu giải phóng Việt Bắc cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 13 đến 15-8-1945, quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 15-8-1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân tại Tân Trào tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ lâm thời) do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau đó, ra Lời kêu gọi nhân dân Tổng khởi nghĩa: “…Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…”
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội; ngày 23-8-1945, ở Huế và ngày 25-8-1945, ở Sài Gòn. Chỉ trong vòng 15 ngày, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Chinh quyền cách mạng đã về tay nhân dân.
Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng đã về đến Hà Nội.
Ngày 27-8-1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban dân tộc giải phóng được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chính phủ lâm thời thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất tiêu biểu cho Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi…
Ngày 30-8-1945, tại Huế, các đồng chí Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận thay mặt Chính phủ lâm thời tuyên bố chấp nhận sự thoái vị của Bảo Đại và nhận ấn, kiếm của nhà Vua giao nộp cho Chính phủ cách mạng trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào Thừa Thiên – Huế.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời làm lễ ra mắt quốc dân tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội. Trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sau ngày 25-8, quân đội Anh và Trung Quốc nhân danh Đồng Minh chống phát xít đã kéo vào Đông Dương tước vũ khí quân đội Nhật, nhưng nhiệm vụ thật sự của chúng là ngăn chặn và đẩy lùi cuộc nổi dậy của nhân dân ta. Nếu đến ngày 25-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa chưa thắng lợi hoàn toàn, Chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim do quân đội Nhật dựng lên sẽ được các nước đế quốc thừa nhận là hợp pháp và được họ giúp đỡ chống lại sự nghiệp giải phóng của nhân dân ta. Khả năng thứ hai là bọn đế quốc sẽ chia nhau khu vực thống trị nước ta, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới.
Nhà nước cách mạng của nhân dân ta ra đời ở giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Bác Hồ và Trung ương Đảng, một mặt củng cố lực lượng, giải quyết những vấn đề cấp bách là nạn đói và lụt ở miền Bắc, ngăn chặn cuộc tiến công xâm lược của Pháp ở miền Nam, mặt khác, thực hành sách lược linh hoạt tránh một cuộc đối đầu cùng một lúc với các thế lưc thù địch, vừa tranh thủ khả năng phát triển hoà bình, vừa tích cực chuẩn bị đối phó với một cuộc chiến tranh quy mô lớn.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một cuộc cách mạng điển hình của thế kỷ XX, đã mở ra một thời đại mới rực rỡ nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam: Thời đại Hồ Chí Minh. Thiên tài trí tuệ Hồ Chí Minh và bản lĩnh sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam rõ ràng đã nổi lên trong tình thế hiểm nghèo đó của đất nước./.

Chú thích: 
(1)(2) Danh nhân Hồ Chí Minh – NXB Lao động- H- 2000- T 1 – tr 186-187.
(3)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập – NXBCTQG- Hà Nội         – 2.000. T 7 - tr 357.


CÙNG CHUYÊN MỤC