Ngày giỗ tổ 10-3 có từ khi nào?

Tử Quang
12/4/2022

Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba Câu ca nằm lòng ấy bao đời đã in sâu trong tâm thức người Việt, để con cháu vua Hùng dẫu đi xa đến đâu cũng biết nhớ về. Tuy nhiên, vì sao người Việt lại làm giỗ vua Hùng vào ngày mùng 10 tháng 3 thì không phải ai cũng biết. Một số nhà sử học khẳng định truyền thống giỗ tổ 10-3 trải cả hàng ngàn năm, liệu điều đó có chính xác không? Bài viết này sẽ giải đáp một số thắc mắc về Giỗ tổ Hùng Vương - Nét văn hoá đẹp của dân tộc Việt Nam.


 1. "(Nhớ) ngày giỗ tổ mồng 10 tháng 3" có từ bao giờ.

         Nhiều người cho rằng, ngày giỗ tổ mồng 10 tháng 3 có từ cả ngàn năm về trước! Tuy nhiên việc này mới chỉ có tuổi đời hơn trăm tuổi mà thôi. Hơn nữa, việc này cũng ko phải do nhân dân ta hay một cộng đồng nào đó đặt ra, mà do một Nho sĩ đề xướng. Việc này được ghi lại rất rõ ràng trong tấm bia đá đặt tại đền Hùng, có tên là "Hùng Vương từ khảo" (Nghiên cứu về đền thờ Hùng Vương). Trước hết, để tiện theo dõi, chúng tôi xin được dịch toàn bộ bài văn bia này ra tiếng Việt như sau:

Nguyên văn: 

雄王祠者我越最古史上鴻厖列王祀所也雄王第一陽曆紀元前二八七九都峯州即今白鶴國號文郎傳十八世皆稱雄王歷年二千六百二十有二後蜀安陽王占據其地陽曆紀元前二五八存前王祀建廟於義嶺即今雄山給祀田在羲崗社古蹟村乃雄王第十八升遐故地也今尚有陵在廟旁嗣而肇富村民建別廟於山腰以奉之即今中祠薇崗社又建別廟於山麓以奉之即今下祠歷朝列之祀典皇朝嗣德貳拾柒年陽曆一八七四三宣總督阮伯儀奉勅重修上祠維新陸年陽曆一九十二延茂郡公黃高啟咨請政府給銀貳千元富夀巡撫制光恩又奉行勸捐重修內寢外殿如今規式啟定柒年陽曆一九二二增修山陵前者國祭以秋為期啟定貳年陽曆一九十七富夀巡撫黎忠玉咨請禮部印定以遞年叁月初拾為國祭日即雄王第十八忌前一日也忌日三月十一由所在民致祭山腰有古寺號天光寺嗣德叁年陽曆一八五十刑部尚書阮登楷因舊重建啟定玖年陽曆一九二四巡撫黎雲嵿又增補之山下南邊有廟號井廟祀公主二位一是雄王第三世僊容公主適褚童子一是雄王第十八世玉花公主適高山啟定柒年陽曆一九二二重修保大拾年陽曆一九三五又增廣之

皇阮保大拾五年庚辰叁月初拾日參知領富夀巡撫裴玉環奉誌
Văn bia “Hùng Vương từ khảo” tại đền Hùng hiện nay. Nguyên văn bia gốc đã bị mất từ lâu. Thời gian gần đây văn bia này đã được phục chế lại theo đúng thác bản của Viện Viễn Đông Bác Cổ. Ảnh: Tử Quang

Phiên âm:

Hùng Vương từ giả ngã Việt tối cổ sử thượng Hồng Bàng liệt vương tự sở dã. Hùng Vương đệ nhất (dương lịch kỷ nguyên tiền nhị bát thất cửu) đô Phong Châu (tức kim Bạch Hạc) quốc hiệu Văn Lang, truyền thập bát thế, giai xưng Hùng Vương, lịch niên nhị thiên lục bách nhị thập hữu nhị. Hậu Thục An Dương Vương chiếm cứ kỳ địa (dương lịch kỷ nguyên tiền nhị ngũ bát) tồn tiền vương tự kiến miếu ư Nghĩa Lĩnh (tức kim Hùng sơn), cấp tự điền tại Hi Cương xã, Cổ Tích thôn, nãi Hùng Vương đệ thập bát thăng hà cố địa dã.

Kim thượng hữu lăng tại miếu bàng, tự nhi Triệu Phú thôn dân kiến biệt miếu ư sơn yêu dĩ phụng chi (tức kim Trung từ), Vi Cương xã hựu kiến biệt miếu ư sơn lộc dĩ phụng chi (tức kim Hạ từ), lịch triều liệt chi tự điển.

Hoàng triều Tự Đức nhị thập thất niên (dương lịch nhất bát thất tứ) Tam Tuyên tổng đốc Nguyễn Bá Nghi phụng sắc trùng tu Thượng từ; Duy Tân lục niên (dương lịch nhất cửu thập nhị) Diên Mậu quận công Hoàng Cao Khải tư thỉnh chính phủ cấp ngân nhị thiên nguyên; Phú Thọ tuần phủ Chế Quang Ân hựu phụng hành khuyển quyên trùng tu nội tẩm ngoại điện như kim quy thức; Khải Định nhị niên (dương lịch nhất cửu nhị nhị) tăng tu sơn lăng.

Tiền giả, quốc tế dĩ thu vi kỳ; Khải Định nhị niên (dương lịch nhất cửu thập nhất) Phú Thọ tuần phủ Lê Trung Ngọc tư thỉnh Lễ bộ ấn định dĩ đệ niên tam nguyệt sơ thập vi quốc tế nhật, tức Hùng Vương đệ thập bát kị tiền nhất nhật dã. Kị nhật (tam nguyên thập nhật) do sở tại dân chí tế.

Sơn yêu hữu cổ tự, hiệu Thiên Quang tự, Tự Đức tam niên (dương lịch nhất bát ngũ thập) Hình bộ thượng thư Nguyễn Đăng Giai, nhân cựu trùng kiến; Khải Định cửu niên (dương lịch nhất cửu nhị tứ) Tuần phủ Lê Vân Đỉnh hựu tăng bổ chi.

Sơn hạ Nam biên hữu miếu, hiệu Tỉnh miếu tự công chúa nhị vị: Nhất thị Hùng Vương đệ tam thế Tiên Dung công chúa (thích Chử Đồng Tử); nhất thị Hùng Vương đệ thập bát thế Ngọc Hoa công chúa (thích Cao Sơn) Khải Định thất niên (dương lịch nhất cửu nhị nhị) trùng tu; Bảo Đại thập niên (dương lịch nhất cửu tam ngũ) hựu tăng quảng chi.

Hoàng Nguyễn Bảo Đại thập ngũ niên Canh Thìn tam nguyệt sơ thập nhật. Tham tri lĩnh Phú Thọ tuần phủ Bùi Ngọc Hoàn phụng chí.

Dịch nghĩa:

Đền Hùng Vương: là nơi phụng thờ các vị vua thời Hồng Bàng xa xưa nhất của lịch sử nước Việt ta…. Hùng Vương thứ nhất (năm 2879 TCN) đóng đô ở Phong Châu (nay là Bạch Hạc), quốc hiệu là Văn Lang, truyền 18 đời, đều xưng là Hùng Vương, trải 2622 năm. Sau này, Thục An Dương vương chiếm cứ đất ấy (năm 258), còn việc thờ các vua đời trước thì xây dựng miếu thờ ở Nghĩa Lĩnh (tức núi Hùng), cấp ruộng phục vụ việc thờ cúng ở thôn Cổ Tích xã Hy Cương, chính là vùng đất cũ nơi Hùng Vương thứ 18 qua đời vậy. Giờ còn có lăng ở bên cạnh miếu. Đời sau chính là dân thôn Triệu Phú xây dựng riêng miếu ở lưng núi để thờ phụng các vua (nay là Đền Trung), xã Vi Cương lại dựng riêng miếu dưới chân núi để thờ (Đền Hạ). Trải qua các triều đại được liệt vào điển lễ thờ phụng.

Triều vua Tự Đức năm thứ 27 (năm 1874), Tam Tuyên Tổng đốc Nguyễn Bá Nghi vâng sắc chỉ trùng tu đền Thượng; Duy Tân năm thứ 6 (1912), Diên Mậu quận công Hoàng Cao Khải đã Tư xin chính phủ 2000 quan tiền để trùng tu; quan Tuần phủ Phú Thọ là Chế Quang Ân lại vâng mệnh đi khuyến khích quyên tiền để trùng tu nội tẩm cùng ngoại điện như hiện trạng ngày nay; Khải Định năm thứ 7 (1922), tu sửa thêm lăng trên núi.

Xưa kia, triều đình lấy mùa thu làm mốc cúng tế. Khải Định năm thứ 2 (1917), quan Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc đã Tư xin bộ Lễ cho ấn định lấy mồng 10 tháng 3 hàng năm làm ngày quốc tế (cả nước thờ cúng), tức trước ngày giỗ Hùng Vương 1 ngày vậy. Ngày giỗ (11 tháng 3) thì do dân địa phương cúng tế.

Eo núi có ngôi chùa cổ, tên là chùa Thiên Quang. Tự Đức thứ 3 (1850), quan Thượng thư bộ Hình là Nguyễn Đăng Giai thấy chùa đã cũ nên cho xây dựng lại; Khải Định năm thứ 9 (1924), quan Tuần phủ Lê Vân Đỉnh lại cho tu bổ thêm.

Chân núi phía Nam có miếu, tên gọi là miếu Giếng thờ hai vị công chúa: một là Công chúa Tiên Dung con Hùng vương thứ 3 (gả cho Chử Đồng Tử); một là Công chúa Ngọc Hoa con Hùng vương thứ 18 (gả cho thần Cao Sơn). Khải Định năm thứ 7 (1922) trùng tu. Bảo Đại năm 10 (1935) lại xây rộng thêm.

Mùng 10 tháng 3 năm Canh Thìn, niên hiệu Bảo Đại triều Nguyễn năm thứ 15 (1940), Quan Tham tri lãnh chức Tuần phủ Phú Thọ là Bùi Ngọc Hoàn vâng mệnh ghi lại.

Không một ai tự tưởng tượng để sáng tác một câu chuyện khắc vào bia đá, mà nó được viết ra và khắc nên, nhân sự kiện và nhân vật có thật. Chính vì vậy đây là loại hình văn bản có giá trị cao, niên đại rõ ràng, thông tin xác tín. Qua bài văn bia này, chúng ta có thể khẳng định rằng việc chọn ngày 10-3 hàng năm được bắt nguồn từ năm Khải thứ 2 - tức năm 1917, cách thời điểm hiện nay đúng 105 năm. Và việc này do quan Tuần phủ (chủ tịch tỉnh) Phú Thọ là Nho sĩ Lê Trung Ngọc đã Tư cho bộ Lễ (bộ Văn hóa) để xin ấn định, chứ không phải là “nhân dân ta từ bao đời nay”. Từ đây, lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vào mùng 10 tháng 3 hàng năm đã trở thành ngày quốc lễ chính thức của Việt Nam và ngày Giỗ Tổ của cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Thác bản văn bia “Hùng Vương từ khảo”. Ảnh: tư liệu

2.“Hùng Vương” xuất hiện sớm nhất trên văn bản nào?

Có nhiều ý kiến cho rằng triều đại Hùng Vương không có thật, mà chỉ là sự sáng tạo của các Nho sĩ/sử quan thời Lê khi biên soạn bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”. Điều này ko đúng, bởi nếu có, thì Toàn thư vẫn phải chép theo các bộ sử trước đó như Đại Việt sử ký hay Việt sử lược, chứ không thể nào tự bịa 1 triều đại với tổng số thời gian dài cả mấy ngàn năm như vậy được.

Hơn nữa, trước khi các Nho sĩ thời Lê viết ĐVSKTT, đã có nhiều Nho sĩ thời Trần nhắc tới “Hùng Vương” và nhà nước “Văn Lang”. Như:

Bài văn bia “Cổ tích thần từ bi ký” 古跡神祠碑記 (văn bia ghi cổ tích đền thờ thần) của Nho sĩ Trương Hán Siêu soạn vào ngày 20 tháng 11 mùa đông năm Nhâm Tý niên hiệu năm Hưng Long thứ 20 (1312) có câu:

想初天神王祠下粵自雄王六世朱鳶部雒將奉造乾巽向敬天臺 (Nhớ tới chuyện xưa, đền thờ Thiên Thần vương, từ đời HÙNG VƯƠNG thứ sáu, do Lạc tướng ở bộ Chu Diên phụng mệnh xây dựng đài Kính Thiên theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.

Sách “Lĩnh Nam chích quái” 嶺南摭怪 (Chọn lựa những chuyện quái dị ở đất Lĩnh Nam) xuất hiện vào cuối thời Trần, gồm 22 truyện, trong truyện “Họ Hồng Bàng” có ghi:

嫗姬於五十男居峰州以其雄長尊立為主號曰雄王國號文郎 (Âu Cơ đem 50 người con trai ở đất Phong Châu, chọn người hùng trưởng, tôn lập làm chủ, gọi là HÙNG VƯƠNG, quốc hiệu là Văn Lang).
Nho sĩ Lê Trung Ngọc, giữ chức Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, người đã xin bộ Lễ ấn định ngày 10-3 hàng năm làm quốc tế. Ảnh: tư liệu

3.Họ của Hùng Vương là gì?

Nước ta thời các vua Hùng chưa có tục đặt họ nên từ vua đến dân chưa ai mang họ cả. Việc đặt họ là do sự Hán hóa khi nước ta bị Bắc thuộc lần thứ 2 trở đi (từ năm 43 đến năm 543). Nhiều quan lại và người dân từ Trung Quốc qua sinh sống và làm việc tại nước ta, nên lâu dần người Việt cũng bắt chước cách đặt họ như người Hán để phân biệt dòng giống và thế thứ. Tuy nhiên, việc đặt họ này chỉ là mô phỏng theo tên dòng họ y như của người Hán, mà chưa hẳn nòi giống đó có gốc gác từ người Hán.

Khi Mã Viện đánh chiếm nước ta, thì thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán có tên là “Hai bà Trưng” hay cụ thể hơn là “Trưng Trắc” & “Trưng Nhị” cho chúng ta thấy rằng thời Hai bà Trưng, người Việt đa số vẫn chưa có tục đặt họ.

Nhưng đến khởi nghĩa Bà Triệu, thì khả năng thời điểm bấy giờ người Việt phần nhiều đã có tục đặt họ, như các nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ Triệu Thị Trinh và anh trai là Triệu Quốc Đạt. Kể từ thời điểm này trở đi, tất cả những nhân vật được ghi chép trong chính sử đều có tên họ rõ ràng.
Văn bia “Hùng Vương kỉ niệm bi” tại đền Hùng. Ảnh: Tử Quang

4. "Quốc tổ" có phải là tổ tiên của cả nước?

Hiện nay có nhiều người cho rằng sẽ không đúng khi tôn xưng Hùng Vương là “quốc tổ”, bởi Hùng Vương chỉ là tổ của dân tộc Kinh (Việt), trong khi Việt Nam hiện nay có nhiều dân tộc; Hùng Vương không phải là ông tổ của người Mông, người Thái, …

Điều này không đúng, bởi “quốc tổ” ở đây không có nghĩa là ông tổ của 1 nước hay ông tổ của cả nước. Quốc 國là nước, tổ祖 ngoài nghĩa là tổ tông, tổ tiên, còn có nghĩa là người sáng lập, người khởi dựng. Như vậy, “quốc tổ” ở đây không mang nghĩa tổ tông huyết thống, mà chỉ mang nghĩa về khai sáng nhà nước. Chính sử có ghi chép rất rõ ràng Hùng Vương “DỰNG NƯỚC gọi là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu”

Cha của Hùng Vương (thứ nhất) là Lạc Long Quân, nhưng lại không phải là “quốc tổ” bởi ông không sáng lập triều đại - nhà nước Văn Lang.

Các vị vua sáng lập nên 1 triều đại cũng thường có miếu hiệu là "tổ", như Lý Thái Tổ triều Lý, Lê Thái Tổ triều Lê…

Phật Tổ là người sáng lập Phật giáo, ko phải tổ tiên của tất cả Phật tử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm đền Hùng vào 18-9-1954 cũng đã chia sẻ rằng: “Các Vua Hùng đã có công DỰNG NƯỚC, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Bác Hồ nói rõ vua Hùng có công xây dựng nhà nước đầu tiên trong lịch sử nước Việt Nam.

Cuối cùng, có ý kiến cho rằng: “Đã gọi “quốc tổ” thì lý ra chỉ nên chọn ra một người để thờ, có đâu thờ nguyên chùm một tập hợp gồm cả 18, 19 vị?”

Trong bất kỳ một gia đình hiện nay đều phụng thờ từ tằng tổ trở xuống. Còn Cao tổ thì sẽ được đưa bài vị vào nhà thờ để thờ chung với tiên tổ, gọi là “Hợp kị”. Như vậy, từ trên 4 đời trong khoảng hơn 100 năm người ta đã làm lễ hợp kị, thì lẽ nào triều đại Hùng Vương cách chúng ta hơn 2000 năm lại không … hợp kị ?!







 

 

 

 

CÙNG CHUYÊN MỤC

Nghiên cứu Kinh tế

Nghiên cứu Văn hóa - Xã hội

Thông tin tư liệu