Cầu cố cụ
Trần Mạnh Cường
14/6/2022
Trên con đường 46 từ Nam Đàn đi Thanh Chương, có một cây cầu đá nhỏ nhắn, rêu phong nhuốm màu cổ kính nằm bên vệ đường thuộc xã Xuân Tường huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Đấy chính là cây cầu đá mà người dân địa phương thường gọi là “cầu Cố Cụ” để tưởng nhớ ơn cụ Nguyễn Phùng Khuông cũng như dòng họ Nguyễn Phùng đối với dân làng nơi đây từ gần 350 năm về trước.
Dòng họ 400 năm, rạng danh khoa bảng:
Dòng họ Nguyễn Phùng là một dòng họ lớn nổi danh về khoa bảng tại mảnh đất Thanh Chương, tính đến nay đã trải qua 400 năm phát triển. Theo cụ Nguyễn Phùng Sằn (93 tuổi) thì ban đầu, vị Thủy tổ của dòng họ là cụ Nguyễn Phùng Trung Tín vốn xuất phát từ Hải Dương, gặp thời loạn lạc bèn di cư vào Nghệ An lánh nạn và định cư tại thôn Thượng Thọ xã Hoa Lâm, tổng Xuân Lâm, huyện Nam Đường, nay là xã Xuân Tường, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Cụ Trung Tín đem cả gia đình vào đây khai hoang canh tác. Trong 1 lần cụ Trung Tín đi làm đồng bỗng bị đau nặng và qua đời ngay tại chân Rú Đụn. Khi gia đình chưa kịp an táng thì mối đã xông lên vùi lấp. Con cháu thấy đây là “Thiên táng”, lại được táng ngay ở một trái núi thiêng nên cứ để như vậy. Trên đỉnh Rú Đụn thường có các đám mây mờ bao phủ xung quanh y như chiếc áo tơi, là một hình ảnh đã được người dân đúc kết bằng câu ca dao quen thuộc: “Khi nào Rú Đụn mang tơi, Rú Nậy (tức núi Đại Huệ) đội nón thì trời đổ mưa” để nói về vẻ đẹp cũng như sự huyền ảo của địa danh nổi tiếng của địa phương. Con trai duy nhất của cụ Trung Tín là cụ Bính Nghĩa lập gia đình và sinh được 3 người con trai là: Sỹ Phương, Đăng Đạo, Phùng Thời, định cư ở Kẻ Rắc, trồng dâu nuôi tằm, sản xuất nông nghiệp. Kể từ đây, dòng họ đã có những đột biến về khoa cử với việc cụ Nguyễn Phùng Thời thi đậu Tiến sỹ khoa thi Hội năm 1715 và đến năm 1731 con trai cụ Phùng Thời là Nguyễn Bá Quýnh tiếp tục thi đậu Tiến sỹ và được khắc ghi tên tại văn bia Văn Miếu – Quốc Tử giám. Hai cụ đều được triều đình trọng dụng: cụ Phùng Thời từng giữ chức Quốc Tử Giám Tế Tửu, cụ Bá Quýnh từng giữ chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp và đều được phong tước hầu, sau này trở thành những bậc danh Nho nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn hóa giáo dục của đất nước.
Cây cầu đá thế kỷ.
Vùng đất Hoa Lâm cách đây mấy trăm năm trước là vùng đất thấp thuộc tả ngạn sông Lam. Vào mùa mưa lũ nước dâng gây ngập úng khắp vùng, người dân sinh hoạt và sản xuất rất khó khăn. Nhân dân thường lấy tre nứa đóng cọc để làm cây cầu tạm cho những lúc ngập lụt. Nhưng cầu tre thường không chắc chắn, phải nhiều lần thay mới mới đảm bảo an toàn. Trong số những con cháu của cụ Bính Nghĩa, còn có cụ Nguyễn Phùng Khuông con trai của cụ Nguyễn Đăng Đạo là người cần mẫn, chăm chỉ nên gia tư giàu có. Cụ thấy cảnh làng quê thường ngập lụt, việc đi lại và sản xuất của người dân quê nhiều khó khăn vất vả nên cụ đã bỏ tiền của và tổ chức nhân dân gánh đá xây cầu. Cụ còn cho người nhà nấu nồi cơm to để úy lạo nhân dân. Đến nay người dân nơi đây vẫn còn truyền tụng nhau câu ca dao: “Cơm mười nống xối, cá mười nồi bung” (nống xối tức loại nống to để phơi lúa, nồi bung tức chỉ loại nồi đồng loại to) nói về sự việc ấy. Ban đầu cụ Phùng Khuông và người dân lấy đá ở những khu vực gần làng nhưng thấy chưa đạt số lượng, cụ liền tổ chức nhân dân đi lấy đá tại Rú Động Kiêng - quả núi cao và gần xã Hoa Lâm. Hồi đó mọi phương tiện đều không có, chỉ dùng sức người để làm việc nặng nhọc, cụ Phùng Khuông lại đứng ra chỉ huy và hướng dẫn người dân cách kéo đá. Cụ cho đục những cây “xà lăn” bằng gỗ cộng với dây chão và tre, cứ mỗi lần ghép đá đều có thể huy động đến hàng chục người tham gia. Chính vì vậy mà có thể kéo được những hòn đá to và nặng từ những nơi xa về. Và cũng với việc xây cầu đá đó mà có câu ca dao rằng: “Thượng Thọ kéo đá bắc cầu. Tràng Cát kéo đá về chầu Động Kiêng”. Theo cụ Nguyễn Phùng Sằn thì câu ca này ý nói rằng những địa phương khác không có người như cụ Phùng Khuông nên không xây được cầu đá như ở thôn Thượng Thọ.
Dòng họ Nguyễn Phùng thôn Thượng Thọ xã Hoa Lâm với thành tích khoa bảng nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho văn hóa giáo dục của đất nước thế kỷ XVII cũng như những dấu ấn để lại trên mảnh đất quê hương nên từ bao đời nay người dân vẫn truyền tụng câu ca dao: “Thượng Thọ là đất đại khoa, văn hiến chi địa, quốc gia trâm bào”. Đến nay, tuy trải qua 4 thế kỷ với nhiều thăng trầm và thay đổi nhưng cây cầu đá năm nào vẫn còn y nguyên, vững chãi, nhuốm rêu phong của thời gian thế kỷ. Là minh chứng cho tấm lòng thơm thảo của cụ Phùng Khuông đối với mảnh đất quê hương.