Linh vật Việt
Mạnh Cường
10/6/2022
Trong quá trình điền dã vào các làng quê xứ Nghệ, ta vẫn có thể bắt gặp những hình ảnh biểu tượng linh vật Việt được cha ông ta sử dụng từ rất lâu về trước. Tuy những biểu tượng về linh vật không phong phú như các tỉnh tại Đồng bằng sông Hồng nhưng vẫn chứa đựng những giá trị lớn về mĩ thuật điêu khắc
. Đền Thần, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, thờ phụng Mộc lôi linh ứng thiên thần và các vị thần khai canh như: Hồ Hồng, Hồ Kha, Nguyễn Thạc. Đền được xây dựng từ thời Lê, trải qua những thăng trầm biến cố của thời gian nên đã bị hư hỏng và được trùng tu dưới thời Nguyễn. Tuy vậy, hiện đền vẫn còn lưu giữ được một hệ thống biểu tượng linh vật thuần Việt có giá trị thẩm mỹ cao, đó là hệ thống hổ, voi ngựa, quan chầu và đặc biệt là cặp Nghê có niên đại thế kỷ XVII –XVIII.

Chó đá tại đền Quan Lớn Bùng
Trong số các linh vật do người Việt tiếp thu, học hỏi và tạo hình thì hình tượng con nghê là đáng chú ý nhất bởi nó là con vật thường thấy nhất trong hệ thống công trình văn hoá của nước ta. Đây là con vật uy nghiêm, biểu cảm, gần gũi, được người nghệ nhân dân gian tạo hình phù hợp với không gian hoàn cảnh mà nó đứng. Nghê tại đền Thần có kích thước nhỏ bé, cân đối. Hình tượng nghê được tạo: mặt ngắn, mình thon dài, cổ ngửa thẳng và đeo dây lục lạc có tua, mắt to, mũi lớn, tai to. Miệng nghê hé mở để lộ những răng nanh nhọn hoắt, tạo thêm vẻ oai nghiêm. Chân Nghê thanh nhưng thẳng và mạnh, chân sau ở thế ngồi bắp thịt đùi trông rắn chắc mạnh mẽ, hai chân trước chống cao, chỗ đầu gối có lông xoắn cong. Lông trên sống lưng mượt sát vào mình với những đường khắc, uốn từ sống lưng xuống phía bụng chạy suốt từ đỉnh đầu xuống đến đuôi như dãy cờ. Tại một số di tích khác tại xứ Nghệ, nghê lại được được tạc với dáng vẻ trầm ngâm, buồn bã: mắt cụp xuống để thương tiếc cho chủ nhân trong khu vực đền thờ. Như vậy, hình tượng Nghê trong không gian tâm linh Việt có hai chức năng cụ thể đó là: hoan hỉ chào đón ở lối vào, hoặc ngược lại: tạo ra sự thương cảm, trầm ngâm, làm tăng thêm vẻ u mặc, linh thiêng ở các đền miếu.

Nghê đá tại đền thờ Danh sĩ Nguyễn Huy Tự
Đền thờ Quan Lớn Bùng xã Diễn Ngọc huyện Diễn Châu thờ phụng 3 vị đại tướng quân họ Bùi nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam mà trong đó nổi bật nhất là Đoan Quận công Bùi Thế Đạt. Đoan Quận công vốn là võ tướng có công lao với triều đình Lê Trịnh, nên sau khi ông mất, triều đình tặng phong là “Phúc thần” và ra sắc lệnh xây dựng đền miếu để thờ phụng. Ngôi đền thờ của ông lúc bấy giờ được xếp vào hàng “Quốc tạo, quốc tế” (nhà nước xây dựng và tế lễ).

Linh vật tại đền Tiến sĩ Nguyễn Trọng
Điều đáng tiếc là trải qua 2 cuộc chiến tranh, ngôi đền bị hư hỏng gần như hoàn toàn nên không còn giữ được hệ thống kiến trúc cũ, cũng như các đồ tế khí cổ. Nhưng may mắn nhất là toàn bộ hệ thống các bức tượng võ quan đứng chầu cùng với 2 con voi, 2 con ngựa và đặc biệt là 2 con chó đá đứng ở cửa đền. Trong tâm thức dân gian người Việt, những con chó bình thường chỉ canh giữ được phần “Dương”, còn muốn canh giữ phần “Âm” phải dùng đến chó đá. Chó đá không chỉ mang ý nghĩa về văn hoá tín ngưỡng mà nó còn chứa đựng những giá trị về thẩm mỹ bởi đây là con vật giản dị, gần gũi thần quen, mang đậm hơi thở quê hương. Chính vì vậy khi tạo tác nên chó đá, các nghệ nhân dân gian đã tạo ra một con vật dung dị không hoa văn, không cần đến những nét tinh xảo như con Nghê.
Chính vì vậy mà từ bao đời nay, chó đá đã trở thành một biểu tượng linh vật rất đỗi quen thuộc trong dân gian và tâm thức người Việt. Trong chốn làng quê Việt xưa, tại các điểm như cổng làng, sân đình, cổng chùa và thậm chí cả đầu những chiếc cầu... đều được đặt muột cặp chó đá với ý nghĩa xua đuổi đi những cái xấu và mang về những cái tốt đẹp. Điều này cũng đã được nhiều thư tịch có giá trị khoa học dưới thời phong kiến khẳng định. Sách Lịch triều hiến chương loại chí có nói: “Nghi môn ở điện Lam Kinh có hai con chó đá rất thiêng”.

Voi đá tại xã Song Lộc, Hà Tĩnh
Sách Việt Nam văn hóa sử cương cũng nói: “Xưa kia, cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người ngoài đừng nhìn thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không để cho có con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá”. Hình ảnh của chó đá cũng như con nghê, đã đi vào văn học dân gian truyền từ đời này sang đời khác. Như như chuyện “Cậu học trò và con chó đá”, chuyện “Hai anh em và con chó đá”.
Ngoài cặp chó đá tại đền Quan Lớn Bùng, thì tại đền thờ Tể tướng Nguyễn Văn Giai xã Ích Hậu huyện Lộc Hà tỉnh Hà Tĩnh cũng có 1 cặp chó đá tương tự. Qua đây cho ta thấy hình ảnh con chó đá vẫn tồn tại trong không gian của tầng lớp quý tộc chứ không riêng tầng lớp bình dân. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ. Những biểu tượng linh vật này là một loại hình thường thấy tại các di tích tại Đồng bằng sông Hồng, nhưng tại Nghệ An hiện nay, đền Quan Lớn Bùng là di tích duy nhất trên địa bàn tỉnh còn lưu giữ được. Vì vậy, đây là những di sản đặc biệt quý hiếm, cần bảo tồn.
Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên xà ngang, cột đình, xuất hiện nhiều ở 1 số di tích tại xứ Nghệ như đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh) , làng Trung Cần (Nghệ An)... Đây đều là những ngôi đình có hệ thống điêu khắc và kiến trúc tinh diệu, đẹp mắt...
Qua những chi tiết nói trên, rõ ràng linh vật Việt có hình ảnh và dấu ấn rất đậm nét trong lịch sử dân tộc. Vì vậy không lẽ gì mà người Việt thời hiện đại lại không tiếp nối truyền thống ông cha mà lại đi dùng linh vật ngoại lai.